Suy giãn tĩnh mạch là một bệnh khá phổ biến, đặc biệt ở nữ giới và người lớn tuổi. Thông thường, bệnh không gây nguy hiểm nhưng ảnh hưởng tới thẩm mỹ và còn ảnh hưởng đến sinh hoạt, đôi khi có thể có biến chứng như xuất hiện cục máu đông, chảy máu, loét da… Đặc biệt, nếu cục máu đông vỡ ra có thể đe dọa đến tính mạng.

Suy giãn tĩnh mạch là bệnh gì?

Giãn tĩnh mạch là tình trạng các tĩnh mạch bị sưng và to ra thường xảy ra ở chân và bàn chân. Chúng có thể có màu xanh lam hoặc tím sẫm, và thường có dạng cục, phồng hoặc xoắn. Bất kỳ tĩnh mạch nông nào cũng có thể bị biến dạng, nhưng các tĩnh mạch thường bị ảnh hưởng nhất là ở chân. Đó là vì đứng và đi thẳng làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch của phần dưới cơ thể.

Ở chi dưới, trào ngược tĩnh mạch có thể ở tĩnh mạch nông hay tĩnh mạch sâu. Tĩnh mạch nông liên quan đến tĩnh mạch hiển lớn, tĩnh mạch hiển bé và các nhánh của nó nằm giữa da và mạc cơ và có thể điều trị bằng phẫu thuật. Tĩnh mạch sâu liên quan đến tĩnh mạch đùi và tĩnh mạch sâu khác nằm dưới mạc cơ và khó điều trị bằng can thiệp.

Suy tĩnh mạch mạn tính thường được sử dụng để mô tả những bệnh nhân mắc bệnh tĩnh mạch mạn tính có các dấu hiệu lâm sàng nặng hơn như phù nề, thay đổi màu sắc da hoặc loét.

Hệ tĩnh mạch chi dưới

GIẢI PHẪU HỆ TĨNH MẠCH CHI DƯỚI: Hệ tĩnh mạch đảm bảo nhận máu từ ngoại biên đưa trở về tim, thông qua hai hệ thống:

  • Hệ tĩnh mạch nông, đảm nhiệm 1/10 lượng máu trở về tim.
  • Hệ tĩnh mạch sâu, đảm nhiệm 9/10 lượng máu về tim.

Hai hệ thống tĩnh mạch này, nối với nhau bởi các tĩnh mạch thông và các tĩnh mạch xuyên.

Cơ chế vận chuyển máu từ tĩnh mạch chi dưới về tim:

  • Nhờ lực đẩy ở chân lúc đi lại.
  • Nhờ lực hút khi hít thở.
  • Nhờ hệ thống van 1 chiều chống chảy ngược.

Khi một trong 3 cơ chế bị hạn chế làm máu không trở về tim được làm máu ứ đọng ở chân gây nên bệnh lý suy tĩnh mạch chi dưới.

Nguyên nhân gây bệnh giãn tĩnh mạch

Trào ngược tĩnh mạch xảy ra khi có sự suy van tĩnh mạch trong tĩnh mạch hiển làm ứ trệ dòng máu trong các nhánh tĩnh mạch hiển. Bình thường áp lực tĩnh mạch ở chi được điều hòa bởi các van này. Van không còn hoạt động gây gia tăng áp lực tĩnh mạch và có thể gây ra triệu chứng. Nếu cơ chế bơm máu ở cẳng chân kém thì càng gây nên triệu chứng trầm trọng.

giãn tĩnh mạch
Trào ngược tĩnh mạch xảy ra khi có sự suy van tĩnh mạch

Dưới đây là một số nguyên nhân có thể gây ra bệnh:

  • Yếu tố di truyền: Theo thống kê thì khoảng 80% bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch có cha hoặc mẹ mắc bệnh.
  • Giới tính: Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ cao hơn nam do ảnh hưởng của nội tiết tố nữ, quá trìnhmang thai và sở thích mang giày cao gót.
  • Tuổi cao: Tuổi càng cao thì nguy cơ giãn tĩnh mạch càng cao.
  • Nghề nghiệp: các nghề phải đứng quá lâu hay ít vận động như giáo viên, nhân viên bán hàng, nhân viên văn phòng,…
  • Khối lượng cơ thể: gây tác động lên đôi chân khiến máu bị dồn về phía chân.
  • Sử dụng thuốc ngừa thai cũng là một yếu tố nguy cơ.
  • Các bệnh lý nhiễm trùng, khối u, sau phẫu thuật có biến chứng tắc mạch, viêm mạch và các thủ thuật khác như bó bột hay phải nằm bất động lâu trong gãy xương… cũng có thể dẫn tới bệnh giãn tĩnh mạch.

Triệu chứng của bệnh giãn tĩnh mạch

  • Đau chân, hoặc chân có cảm giác mệt mỏi, nặng nề, đặc biệt vào cuối ngàyhoặc khi đứng quá lâu.
  • Thỉnh thoảng xuất hiện phù nề ở cẳng chân,bàn chân hoặc mắc cá chân thường vào cuối ngày hoặc khi đứng lâu ngồi lâu.
  • Đau khi đi lại nhiều.
  • Thay đổi màu da – Da có thể chuyển sang màu đỏ hoặc nâu đỏ. Thay đổi màu da thường xảy ra đầu tiên xung quanh mắt cá chân.
  • Cảm giác tê, ngứa xung quanh một hoặc nhiều tĩnh mạch. Nặng hơn có thể viêm da, xơ cứng, lở loét (Vết loét hở, còn được gọi là “vết loét tĩnh mạch” – Thường ở mắt cá chân, có thể đau và chảy nước.)

Chẩn đoán suy giãn tĩnh mạch mạn tính được gợi ý bởi sự hiện diện của các triệu chứng điển hình (đau chân, mệt mỏi, nặng nề). Nó cũng được xác nhận bằng sự hiện diện của trào ngược dòng máu tĩnh mạch (hệ thống tĩnh mạch nông và hệ thống tĩnh mạch sâu), hoặc được chẩn đoán bằng siêu âm doppler màu mạch máu chi dưới.

Chỉ khi bệnh đã tiến triển tới giai đoạn nặng người bệnh mới tìm cách để điều trị. Khi đó, bệnh đã gây ra nhiều biến chứng và rất khó để khắc phục hoàn toàn. Do đó, khi phát hiện ra các dấu hiệu của bệnh hãy đến ngay các cơ sở y tế để được khám và điều trị kịp thời.

Biện pháp phòng ngừa bệnh giãn tĩnh mạch

Không có cách nào để ngăn ngừa hoàn toàn suy giãn tĩnh mạch. Nhưng cải thiện tuần hoàn và trương lực cơ của bạn có thể làm giảm nguy cơ phát triển suy giãn tĩnh mạch hoặc mắc thêm các bệnh khác. Các biện pháp bạn có thể thực hiện tại nhà hoặc nơi làm việc có thể giúp ngăn ngừa suy giãn tĩnh mạch, bao gồm:

  • Nếu công việc của bạn buộc phải ngồi hoặc đứng liên tục thì nên thay đổi tư thế ngồi hoặc đứng thường xuyên.
  • Tập nâng cao chân đến mức ít nhất là ngang tim 3 hoặc 4 lần mỗi ngày, mỗi lần 30 phút. Nâng chân dưới mức tim, chẳng hạn như trên ghế salon, được đánh giá là không có tác dụng.
  • Thực hiện các bài tập vận động các ngón chân và bàn chân của bạn xuống và lên vài lần mỗi ngày. Một vài động tác đơn giản có thể tập tại nhà hoặc nơi làm việc giúp phòng ngừa suy giãn tĩnh mạch.
bài tập phòng giãn tĩnh mạch
Bài tập giúp phòng ngừa suy giãn tĩnh mạch
  • Không đi đứng hoặc ngồi một chỗ quá lâu.
  • Khi nghỉ ngơi, nên kê chân cao.
  • Ăn nhiều chất xơ, vitamin và uống nhiều nước.
  • Tăng cường tập luyện thể dục thể thao, nên tập đi bộ khoảng 30 phút mỗi ngày.
  • Có thể xoa bóp và ngâm chân trong nước ấm.
  • Mang giày đế mềm, gót thấp, tránh giày cao gót.
  • Không nên mặc quần áo quá chật, đặc biệt là bó sát ở vùng chậu và hông, làm cản trở máu lưu thông.
  • Hạn chế sử dụng thuốc tránh thai.
  • Tránh mang vác nặng (ví dụ: khi đi chợ, mua sắm) sẽ làm máu dồn xuống chân nhiều hơn và tĩnh mạch ở chân càng quá tải.
  • Theo dõi cân nặng.

Điều trị bệnh giãn tĩnh mạch

Tùy vào từng bệnh nhân và tiến triển của bệnh mà bác sĩ có thể chỉ định một biện pháp riêng lẻ hay kết hợp các phương pháp dưới đây:

Điều trị bảo tồn:

  • Dùng băng ép và vớ tạo áp lực: Băng và vớ có tác dụng ép vào các bắp cơ, tạo một áp lực lớn ở phía dưới và giúp các van tĩnh mạch khép lại, do đó giúp máu lưu thông về tim dễ dàng hơn. Hai dụng cụ này giúp làm chậm tiến triển của bệnh, phòng ngừa bệnh tái phát và hỗ trợ các biện pháp điều trị ngoại khoa.
  • Dùng thuốc: dùng thuốc chống đông máu, thuốc giảm đau và thuốc hỗ trợ tĩnh mạch theo đúng chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Công ty Viphar đã nghiên cứu và cho ra đời sản phẩm VENE VIPHAR với công thức chiết xuất từ thảo mộc giúp hỗ trợ làm bền thành mạch máu, giúp máu luu thông tốt hơn, ngăn ngừa tình trạng vỡ mạch, phù nề mạch, bảo vệ thành mạch khỏi các tổn thương, chống Oxy hoá, chống viêm, cải thiện tuần hoàn máu. Làm giảm các biểu hiện suy giãn tĩnh mạch do thành mạch kém.

Vene Viphar

  • Chích xơ: một dung dịch sẽ được tiêm vào tĩnh mạch gây phản ứng viêm kết hợp với nén ép tĩnh mạch, khiến máu không vào được tĩnh mạch bị giãn, kết quả là tĩnh mạch đó bị xơ hóa và không còn hoạt động nữa.
  • Kem bôi: Hiện nay, các loại kem suy giãn tĩnh mạch đang nhận được sự chú ý của các bệnh nhân. Đây là một phương pháp điều trị an toàn nhưng đem lại hiệu quả cao. Bật mí cho bạn loại kem suy giãn tĩnh mạch VENE CREAM đang được nhiều người lựa chọn nhất.

Phẫu thuật: được áp dụng cho trường hợp tổn thương tĩnh mạch nông, đoạn tĩnh mạch bị giãn sẽ bị cắt bỏ thông qua các đường rạch nhỏ. Ca phẫu thuật thường kéo dài khoảng 5-10 phút. Sau phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được băng ép và nằm bất động trên giường khoảng ba ngày.

Điều trị can thiệp nội mạch:

Tại Hoa Kỳ, phương pháp phẫu thuật cắt bỏ tĩnh mạch đã được thay thế bằng phương pháp cắt đốt nhiệt nội mạch qua ống thông (EVTL). Phương pháp này sử dụng năng lượng laser hoặc sóng cao tần. EVTL được thực hiện dưới hướng dẫn siêu âm và gây tê tại chỗ. Trong thủ thuật EVTL, một ống thông được đưa vào tĩnh mạch hiển cách chỗ nối tĩnh mạch hiển-đùi vài centimet. Ống thông được kết nối với máy phát điện bên ngoài, và khi ống thông được rút ra khỏi tĩnh mạch, năng lượng nhiệt được giải phóng nơi ống thông được đặt vào. Kết quả là nơi tĩnh mạch trào ngược bị loại bỏ, máu chỉ chảy qua những tĩnh mạch “khỏe mạnh” khác.

Nguồn: Tổng hợp